Bà Triệu Thị Trinh sinh năm Bính Ngọ (226), có tài liệu ghi lại là Bà sinh năm Ất Tỵ (225), tại Quản Yên, quận Cửu Chân (nay thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ II (43-541), vào năm Mậu Thìn (248), Bà đã dấy binh khởi nghĩa chống quân xâm lược Đông Ngô (Trung Hoa).
Bà tuẩn tiết ngày 21 tháng 2 năm Mậu Thìn (nhằm ngày 1 tháng 4 năm 248).
Bà Triệu, tên là Triệu Thị Trinh, còn được gọi là Triệu Trinh Nương , là nữ anh hùng của dân tộc từ đầu thế kỷ thứ III. Thủa nhỏ cha mẹ đều mất sớm. Bà có người anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở miền núi Quản Yên, quận Cửu Chân (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Bà là người có sức khỏe, gan dạ, mưu trí, giỏi võ nghệ và có chí lớn. Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!”
Thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân gian khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Lúc đầu, anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó đảm đang trọng trách, nhưng sau chịu nghe theo ý kiến của em. Bà cùng người anh tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ Phú Điền (Hậu Lộc-Thanh Hóa). Đây là một thung lũng ở giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng vào. Vì mến mộ Bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm luyện võ chờ ngày nổi dậy. Dân gian thời ấy làm thơ ca tụng:
“Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.”
Năm Mậu Thìn (248) nghĩa quân bắt đầu tấn công quân Ngô. Các thành ấp của quân Ngô đều bị đánh phá tan tành. Quan lại cai trị kẻ bị giết, người chạy trốn. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ sử Giao Châu hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử Ngô phải viết: “Toàn thể Giao Châu chấn động“.
Mỗi lần ra trận, Triệu Thị Trinh thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô khiếp sợ đã phải thốt lên: “Vung giáo chống hổ dễ, Giáp mặt vua Bà khó.”
Tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Giao Châu mất tích, vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận, một tướng từng trải qua bao trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử. Lục Dận đem thêm 8000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh mạnh vừa đem của cải chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số bị giao động mắc mưu. Dù vậy, Bà Triệu vẫn kiên cường đánh nhau với giặc không nao núng. Sau khoảng 6 tháng chống chọi với quân Đông Ngô, Bà bị thua, và đã tuẫn tiết trên núi Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào ngày 21 tháng 2 âm lịch năm Mậu Thìn (nhằm ngày 1 tháng 4 năm 248). Lúc ấy Bà chỉ mới 23 tuổi.
Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 265.
Vua Lý Nam Đế sau này khen Bà là người trung dũng, và sai lập miếu thờ, phong là: “Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân”. Đền thờ đó nay ở Phú Điền-Thanh Hóa.
(VDCV tóm lược từ nhiều tài liệu đang lưu hành.)
Âm nhạc vinh danh Bà Triệu
Bà Triệu Thị Trinh (Ngô Nguyễn Trần)
Những truyền thuyết về BÀ TRIỆU trong dân gian.
Lệnh Bà sức khoẻ đang xuân
Cỡi đầu voi dữ diệt quân bạo tàn
(Hồ Đắc Duy)
1. Chuyện bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà:
Người dân ở thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công còn truyền lại câu chuyện như sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của bà Triệu.
Tiếng tăm cô gái 19 tuổi trị voi rừng vang dội khắp nơi, càng thu hút thêm nhiều người đi theo bà.
2. Chuyện “Đá biết nói”:
Sau khi bà Triệu huấn luyện thuần thục chú voi hung dữ trên, những ngày đầu tụ nghĩa, bà đã ngầm cho đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao giả lời thần nhân mách bảo:
Có bà Triệu tướng,
Vâng lệnh Trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Từ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi kia biết nói, báo hiệu cho dân chúng biết bà Triệu là “thiên tướng giáng trần” giúp dân, cứu nước. Vì vậy hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau xuống Phú Điền dựng căn cứ.
“Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu mũi mác cho chồng trẩy quân”
(Thơ ca dân gian)
3. Và rất nhiều câu chuyện thể hiện tình dân đối với công cuộc khởi nghĩa của bà Triệu:
Như chuyện một ông già mù miền núi đã đi khắp nơi, dùng tiếng đàn, giọng hát của mình để ngâm ngợi cổ vũ dân chúng đứng dậy cứu nước.
Một bà cụ hàng nước cố xin cho con gái được theo quân giết giặc, còn mình thì giúp cả chõng chuối với chum nước chè xanh cho nghĩa binh đang trẩy quân qua đỡ lòng, đỡ khát.
Dọc sông Mã, vùng Cẩm Thạch có truyền thuyết và di tích về một bà nữ tướng cưỡi voi đánh giặc Ngô (ám chỉ bà Triệu)
Vùng Khang Nghệ còn có truyền thuyết nói rằng:
Thời xưa sông Mã có một nhánh chảy từ đầm Hàn về cửa Lạch Trường. Đó là nơi quân Ngô chiếm giữ, chiến thuyền san sát như lá tre. Một chàng trai đã ăn trộm ngựa chiến của quân giặc trốn về với bà Triệu và trở thành dũng tướng của nghĩa quân. Trong một trận giao tranh trên sông nước, vì anh đi chân vòng kiềng nên đã vấp phải dây chằng mà tử trận. Giặc Ngô đang ăn mừng thắng lợi thì hai bờ sông chuyển động. Đất trời nổi cơn giận dữ, hắt rừng cây núi đá xuống lấp cạn dòng sông, chôn vùi cả mấy vạn xác thù…
Lại có câu chuyện đền Cô Thị ở xã Hà Ngọc (Hà Trung). Một cô gái rất thích quả thị, chờ đợi người yêu đi đánh giặc và khi chết biến thành cây thị. Cây thị này chỉ có một quả, không ai hái được, vì hễ ai thò tay bẻ thì cành thị lại tự dưng vút hẳn lên cao. Cành ấy đời đời ngả về phía đông nam theo hướng người yêu của cô đang ở trong quân dinh bà Triệu. Một ngày thắng trận, chàng trai được phép bà Triệu về thăm làng xóm thì cành cây mới chịu sà xuống và quả thị rơi vào ống tay áo của chàng…
Và nơi trung tâm tụ nghĩa là vùng núi Tùng Sơn (Phú Điền). Ở đây còn có núi Chung Chinh với 7 đồn lũy tương truyền là quân doanh của bà Triệu, nơi đã từng diễn ra trên ba chục trận đánh với quân Ngô.
Dưới chân núi Tùng, còn có cánh đồng Lăng Chúa (lăng bà Triệu), đồng Vườn Hoa, đồng Xoắn ốc… tương truyền là tên cũ còn lại khi bà Triệu đắp lũy xây thành. Ở đây còn lưu hành rộng rãi truyền thuyết về ba anh em nhà họ Lý đi tìm bà Triệu, rước bà từ quê ra đây dựng doanh trại, sửa soạn khởi nghĩa và tôn bà làm chủ tướng..
4. Tương truyền bà Triệu mất đi, nhưng anh linh vẫn tiếp tục chống quân phương Bắc xâm lược – bảo vệ đất nước.
Nhiều đêm dân làng các vùng Bồ Điền, Phú Điền vẫn nghe văng vẳng trên không trung tiếng voi gầm, ngựa hí và tiếng cồng thúc quân dóng dả.
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha
Chông gai một cuộc quan hà,
Dù khi chiến tử còn là hiển linh
(Đại Nam quốc sử diễn ca – Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát)
Năm Lý Bôn khởi nghĩa, ông mộng thấy Bà Triệu hẹn sẽ giúp sức để tiêu diệt quân xâm lược nhà Lương. Quả nhiên, trong một trận giao tranh, bỗng có một cơn lốc xoáy nổi lên. Bọn tướng giặc là Tôn Quýnh, Lý Tử Hùng tối tăm mặt mũi, bị Lý Bôn đánh cho tan nát.
Khi Lý Bôn lên ngôi (Lý Nam đế), nhớ ơn bà phù trợ, đã sai lập miếu thờ, xây lăng mộ bà ở làng Phú Điền (Thanh Hóa) và phong bà là: “Bật chính Anh liệt Hùng tài Trinh nhất phu nhân”.
Vài hình ảnh về Bà Triệu:
Bà Triệu Thị Trinh (tranh Đông Hồ)
Bà Triệu đánh đuổi quân Đông Ngô (Trung Hoa) xâm lược
(tranh sưu tầm trên internet, không rõ tác giả)
Đền thờ Bà Triệu ở Hậu Lộc – Thanh Hóa (hình Mai Trung Dung)
Vài tài liệu tìm hiểu thêm về Bà Triệu:
Bà Triệu (wikipedia)
Bà Triệu (Thiên Lý Bửu Tòa)